Con đường dẫn đến chiến tranh 1934-1939 Lịch_sử_quân_sự_Đức_trong_Chiến_tranh_thế_giới_thứ_hai

Trong hai năm đầu, chiến thuật của Đức Quốc xã là nói chuyện hòa bình, bí mật chuẩn bị chiến tranh, thực hiện chính sách ngoại giao cẩn trọng, tái vũ trang trong bí mật nhằm tránh các nước Đồng Minh viện dẫn Hòa ước Versailles mà chống Đức bằng quân sự.

Chương trình tái vũ trang 1934-1936

Trong lúc này, Đức Quốc xã theo đuổi một cách không mệt mỏi chương trình tái vũ trang. Quân đội nhận lệnh tăng quân số lên gấp ba – từ 100.000 lên 300.000 quân tính đến ngày 1 tháng 10 năm 1934. Hải quân Đức (Kriegsmarine) đã bắt đầu đóng hai chiếc tàu thiết giáp 26.000 tấn (Hòa ước Versailles hạn định tối đa 10.000 tấn). Việc đóng tàu ngầm, mà Hòa ước Versailles ngăn cấm, đã được tiến hành bí mật ở Phần Lan, Hà LanTây Ban Nha dưới chế độ Cộng hòa Weimar. Hermann Göring cũng tất bật trong hai năm này để lo gây dựng Không quân. Với tư cách là Bộ trưởng Hàng không – được hiểu là Hàng không Dân dụng – ông đặt hàng cho các cơ xưởng thiết kế máy bay chiến đấu. Việc đào tạo phi công quân sự được bắt đầu ngay dưới lốt ngụy trang Liên đoàn Bay Thể thao.

Ngày 16 tháng 3 năm 1935, Adolf Hitler ban hành nghị định thiết lập nghĩa vụ quân sự và một quân đội thời bình gồm có 12 quân đoàn và 36 sư đoàn – khoảng nửa triệu người. Pháp và Anh chỉ lên tiếng phản đối nhưng không có động thái nào khác. Xiềng xích Versailles, biểu tượng của chiến bại và nỗi nhục nhã của Đức, đã bị tháo bỏ.

Ngày 21 tháng 5 năm 1935, Hitler bí mật ban hành Luật Bảo vệ Đế chế, bổ nhiệm Tiến sĩ Hjalmar Schacht làm Bộ trưởng Đặc mệnh Toàn quyền Kinh tế Chiến tranh và tái tổ chức quân lực; Bộ Quốc phòng được đổi thành Bộ Chiến tranh. Quân đội Đức từ danh hiệu Reichswehr (Quân Phòng vệ Đế chế) dưới thời Cộng hòa Weimar bây giờ được chuyển thành Wehrmacht (Lực lượng Phòng vệ). Hitler kiêm thêm Tư lệnh Tối cao Quân lực, Đại tướng Werner von Blomberg được chỉ định làm Bộ trưởng Chiến tranh kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân lực. Mỗi quân chủng có Tư lệnh và Bộ Tư lệnh riêng. Tướng Ludwig Beck được chỉ định là Tham mưu trưởng Lục quân.

Cùng ngày, Hitler đề xuất việc giải trừ quân bị. Đặc biệt, Đức sẵn sàng giới hạn Hải quân Đức mới ở mức 35% của trọng tải lực lượng Hải quân Hoàng gia Anh. Chính phủ Anh rơi vào bẫy của Hitler một cách ngây thơ, nông nổi tiến hành xóa bỏ mọi hạn chế hải quân ghi trong Hòa ước Versailles. Vì lẽ, đồng ý cho Đức gây dựng hải quân bằng 35% hải quân Anh tức là đã cho phép Đức tự do đóng tàu cho hạm đội càng nhanh càng tốt theo khả năng có thể – ngang bằng khả năng huy động tối đa các xưởng đóng tàu và nhà máy thép trong 10 năm. Vì thế, đây không phải là giới hạn tái vũ trang của Đức mà là khuyến khích bành trướng binh chủng hải quân nhanh chóng theo khả năng của Đức.

Đức chiếm Rhineland

Sáng 7 tháng 3 năm 1936, một lực lượng nhỏ của Đức đi qua các cầu sông Rhine và tiến vào khu phi quân sự Rhineland. Lực lượng Đức gồm từ 4 lữ đoàn đến 3 sư đoàn. Pháp tập trung 30 sư đoàn gần biên giới Đức, nhưng chỉ để tăng cường cho Phòng tuyến Maginot. Hitler dám đánh ván bài liều là do Pháp lưỡng lự và Anh nhu nhược. Anh không muốn gây rủi ro chiến tranh cho dù lực lượng của Đồng Minh vượt trội hẳn so với Đức.

Ngày 7 tháng 3 năm 1936, Hitler giải tán Nghị viện, tổ chức "bầu cử" mới và trưng cầu dân ý về việc Đức chiếm Rhineland. Theo số liệu chính thức, 99% cử tri đi bỏ phiếu trưng cầu dân ý, và 98,8% chấp thuận hành động của Hitler.

Ngày 30 tháng 1 năm 1937, Hitler đọc diễn văn trước Nghị viện, tuyên bố "rút chữ ký" của Đức ra khỏi Hòa ước Versailles. Đây là hành động rỗng tuếch nhưng đặc trưng của Hitler, vì bản thân hòa ước đã bị Đức khai tử từ lâu.

Nước cờ định mệnh ngày 5 tháng 11 năm 1937

Buổi chiều 5 tháng 11 năm 1937, Hitler triệu 6 người đến để ông trình bày chiến lược quân sự: Thống chế Bộ trưởng Chiến tranh kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Werner von Blomberg, Đại tướng Tư lệnh Lục quân Werner von Fritsch, Đô đốc Tư lệnh Hải quân Erich Raeder, Đại tướng Tư lệnh Không quân Hermann Göring, Nam tước Ngoại trưởng Konstantin von Neurath, và Đại tá Hossbach, tùy viên quân sự cho Hitler. Lãnh tụ thông báo quyết định không gì lay chuyển được: tiến hành chiến tranh. Các tư lệnh và vị Ngoại trưởng đối mặt với những thời điểm cụ thể để thật sự tấn công hai nước láng giềng Tiệp KhắcÁo – hành động mà họ tin chắc sẽ dẫn đến chiến tranh toàn châu Âu. Họ phải sẵn sàng vào năm 1938, và chậm nhất là 1943-1945.

Blomberg, Fritsch, Neurath và Schacht rơi rụng

Cả Werner von Blomberg, Werner von Fritsch, Konstantin von NeurathHjalmar Schacht đều tỏ ý ít nhiều chống lại quyết định đi đến chiến tranh của Hitler. Chẳng bao lâu, họ đều rơi rụng bằng cách này hay cách khác. Neurath và Schacht bị thay thế, riêng hai tướng Blomberg và Fritsch bị dàn cảnh để rồi bị loại ra khỏi quân đội.

Xem Hermann GöringGestapo về việc dàn cảnh ám hại Blomberg và Fritsch

Áo sáp nhập vào Đức

Trong buổi hội kiến với Thủ tướng Áo Kurt Schuschnigg, Hitler đưa tối hậu thư với các điều kiện: Áo phải bãi bỏ lệnh cấm Đảng Quốc xã Áo, ân xá mọi đảng viên Quốc xã đang ngồi tù, cử luật gia thân Quốc xã, Tiến sĩ Arthur Seyss-Inquart, làm Bộ trưởng Nội vụ với quyền hành chỉ huy các lực lượng cảnh sát và an ninh, cử hai người thân Quốc xã khác làm Bộ trưởng Chiến tranh và Bộ trưởng Tài chính. Cộng thêm sự đe dọa của Đức sẽ tấn công bằng quân sự, Schuschnigg từ chức, Seyss-Inquart lên thay. Đức ngụy tạo một bức điện tín của Seyss-Inquart kêu gọi Hitler đưa quân vào Áo để lập lại trật tự.

Ngày 12 tháng 3 năm 1938, quân Đức tiến vào Áo trong khi Bộ Ngoại giao Đức cho rằng phát biểu của Schuschnigg về tối hậu thư của Đức là "hoàn toàn bịa đặt".

Trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 10 tháng 4 năm 1938, đa số người Áo bỏ phiếu thuận theo Hitler để sáp nhập Áo vào Đức. Không cần bắn một phát súng và không có sự can thiệp của Anh, Pháp và Liên Xô vốn có lực lượng quân sự áp đảo, Đức Quốc xã chiếm được một vị trí chiến lược có giá trị cực kỳ lớn lao cho những kế hoạch trong tương lai. Quân đội của Đức chế ngự Tiệp Khắc ở ba mặt, và Áo là cửa ngõ mở ra vùng Đông-Nam châu Âu.

Cũng vào giữa năm 1938, khi Đức ngấp nghé thôn tính tiếp Tiệp Khắc, nổi lên bước khởi đầu của phong trào chống Hitler, kéo dài cho đến gần cuối cuộc chiến.

Đức thôn tính Tiệp Khắc

Đức lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của người Đức thiểu số ở Tiệp Khắc làm cái cớ để quấy động nước này, trong khi Anh và Pháp vẫn chưa nhận ra mưu đồ ấy. Hitler chỉ thị cho Đảng người Đức Sudeten thân Quốc xã là "phải ra những đòi hỏi mà chính phủ Tiệp Khắc không thể chấp nhận", tức "phải luôn đòi hỏi nhiều để ta không bao giờ được thỏa mãn". Vì muốn xoa dịu Hitler, Thủ tướng Anh Neville Chamberlain gây áp lực bắt Tiệp Khắc phải nhượng bộ.

Kết quả là Tiệp Khắc nhường cho Đức gần 300.000 kilômét vuông lãnh thổ. Trên lãnh thổ này là một hệ thống lô cốt mà từ trước đến giờ tạo nên tuyến phòng thủ vững chắc nhất châu Âu, có lẽ chỉ kém Phòng tuyến Maginot của Pháp. Cả hệ thống đường sắt, đường bộ, điện thoạiđiện tín của Tiệp Khắc đều bị xáo trộn. Theo số liệu của Đức, Tiệp Khắc mất trên dưới 80% than non, hóa chất, xi măng; trên dưới 60% than đá, sắt, thép, điện năng; và 40% gỗ. Một đất nước công nghiệp phồn thịnh trong phút chốc bị tan rã và phá sản.

Đức Quốc xã thôn tính Memel

Memel, một cảng trên bờ Biển Baltic với khoảng 40.000 dân, đã bị Hòa ước Versailles cắt ra từ Đức để trao cho Litva. Hitler quyết định chiếm Memel từ ngoài biển. Ông và Thủy sư Đô đốc Erich Raeder muốn phô trương sức mạnh của hải quân nên cả hai đi trên chiếc tàu thiết giáp bỏ túi Deutschland đến Memel ngày 22 tháng 3 năm 1939, đúng một tuần sau khi Hitler tiến vào thủ đô Praha của Tiệp Khắc. Ngày hôm sau, Litva đã chịu ký nhường Memel lại cho Đức.

Lúc 2:30 giờ chiều ngày 23 tháng 3 năm 1939, Hitler có thêm một chuyến đi chiến thắng vào một thành phố mà ông vừa thôn tính, lần này ở Memel ông cũng phát biểu với một đám đông người Đức mà ông vừa "giải phóng". Thêm một điều khoản của Hòa ước Versailles đã bị xé bỏ. Thêm một cuộc thôn tính không đổ máu. Dù cho Hitler không biết, đấy là cuộc thôn tính không đổ máu cuối cùng.

Hiệp ước Xô-Đức

Bài chi tiết: Hiệp ước Xô-Đức

Ngày 23 tháng 8 năm 1939, Ngoại trưởng Joachim von Ribbentrop của Đức và Ngoại trưởng Viatcheslav Mikhaïlovitch Molotov của Liên Xô ký kết Hiệp ước Xô-Đức hay còn gọi là Hiệp ước Molotov-Ribbentrop, có tên chính thức là "Hiệp ước Bất tương xâm giữa Đức và Liên bang Xô viết". Nghị định thư bí mật đính kèm quy định các nước Phần Lan, Estonia, Latvia, LitvaRomânia thuộc vùng ảnh hưởng của Liên Xô. Hai bên đồng ý phân chia ảnh hưởng tại Ba Lan. Nhiều năm trước, Hitler đã tiên đoán trong quyển Mein Kampf: "Việc ký kết mối liên minh với Nga chỉ là kế hoạch cho cuộc chiến kế tiếp". Trong lúc này, Đức được rảnh tay với Liên Xô để chú tâm thôn tính Ba Lan.